CHỐNG BẮC THUỘC: Nhận diện và cô lập kẻ thù

LuoiBoNhân dịp đến khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17-9-1955 Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tuyên bố “Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia và để đảm bảo tự do cho nhân dân chúng ta…. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa, Trung cộng tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.”

Phải chăng vào thời điểm đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã biết được Hồ Chí Minh chính là tên Tầu Hồ Tập Chương và đã tiên liệu được âm mưu trên sẽ được hai tập đoàn cộng sản Tầu, Việt dàn dựng và thực hiện.
Âm mưu thôn tính và bán nước của bọn chúng là phải làm xong trong 70 năm và chia thành 3 đợt, đợt đầu từ 1990-2020, đợt 2 từ 2020-2040 và đợt 3 từ 2040-2060 và thực hiện từng bước một: “Âm thầm, lặng lẽ, từ từ như tằm ăn dâu, khéo như dệt lụa, êm như thảm nhung…”
Làm cách nào để cho người VN và dư luận quốc tế nhìn nhận rằng, người Tàu không “cướp nước Việt” mà chính người Việt Nam tự mình “dâng nước” và tự ý đồng hóa vào dân Tầu.
Nhưng trong những năm gần đây chuyện cộng sản ra công ra sức dàn dựng để được làm ‘chư hầu’ cho Trung cộng là điều không còn che dấu được bất cứ ai nữa, người ta nói công khai chuyện mất nước, chuyện Việt Nam mất chủ quyền Độc Lập của một quốc gia và trở thành một chư hầu, một tỉnh bang của Trung cộng
Người dân Việt Nam trong và ngoài nước còn nhớ rất rõ ý chí bất khuất của tổ tiên đã khổ công dựng nước và giữ nước, những địa danh như gò Đống Đa, thành Ngọc Hồi, đuốc Hàm Tử, giáo Chương Dương, sông Bạch Đằng, bến Vân Đồn, ải Chi Lăng…lúc nào cũng gợi lên những niềm kiêu hãnh về những chiến công hiển hách của tổ tiên.
Tuy nhiên, kể từ sau ngày chia đôi đất nước 20-7-1954 truyền thống bất khuất ấy, lịch sử ấy đã không còn giá trị trong thực tế, nếu không muốn nói là chỉ còn được bọn cộng sản Việt Nam coi như chuyện của dĩ vãng. Trong chương trình dậy Việt sử tại các trường, chúng cắt ngắn, bỏ bớt, bóp méo những chiến công của tổ tiên trong những lần chống lại sự xâm lược của giặc Tầu, chúng dấu bớt những tư liệu trong thư viện, hạn chế việc tái bản những sách sử, tài liệu về những lần bị dân Tầu đô hộ, sự tàn ác của bọn thái thú cũng như những lần khởi nghĩa, nổi dậy của ông cha ta. Chúng còn bỏ bớt những dịp kỷ niệm những anh hùng dân tộc như lễ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo…
Tóm lại chúng chủ trương là trong 50 năm nữa thế hệ trẻ Việt Nam biết về lịch sử chống Tầu của dân Việt cần phải thật ít, thật lờ mờ, ít thù Tầu. Ta có thể nói là sách lược “không đối đầu và ngoan ngoãn xin được làm chư hầu cho Trung cộng!” đã được áp dụng ngay từ những ngày đầu thành lập đảng cộng sản của tập đoàn Hồ chí Minh, hoàn toàn đối nghịch lại với truyền thống và lịch sử của dân tộc Việt Nam mà bằng chứng là:

· Tháng 8-1951, văn thư TTK số 84/LD thay mặt cho Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VII, do Trường Chinh ký thay cho Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào Việt Nam bỏ chữ quốc ngữ, học chữ tàu.
· Ngày 12-6-1953 Hồ đã ký với Mao một bản văn số 51/GU 0212 tại Quảng Tây ‘Ghi nhớ sự hợp tác Việt Trung’
· Ngày 15-6-1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Ung Văn Khiêm đã nói “Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thì quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc”.
· Ngày 14-9-1958 Phạm văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Hoàng Sa, Trường Sa.
· “Bên ni biên giới là mình, bên kia biên giới cũng tình quê hương” thơ Tố Hữu
· Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc – Lê Duẩn
· Sau đó là Hội nghị Thành đô năm 1990 tại Tứ Xuyên để ‘bình thường hóa ngoại giao sau chiến tranh vào tháng 2-1979’ dẫn đến những lần thương thảo khác để lần lượt những tên Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nguyễn mạnh Cầm…ký những hiệp ước trên đất liền rồi hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ để bán đất, bán biển, dời Ải Nam Quan, thủ tiêu các cột mốc biên giới đã cắm từ thời hiệp định Pháp–Thanh 1887, chia lại thác Bản Giốc cho Tầu cộng…và sau đó Nông Đức Mạnh, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng… đã dành nhiều ‘đặc quyền’, ‘đặc lợi’ cho bọn Tầu cộng, cướp đất của dân bán cho chúng lập ‘đặc khu’ hay ‘biệt khu’ ở các vùng từ Quảng Ninh, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Cao Nguyên, Tân Cơ, Đắc Nông đến Bình Dương, Hà Tiên….

Tất cả đã dẫn đến rất nhiều bất lợi cho Việt Nam trên nhiều phương diện từ chính trị, kinh tế, môi trường, tài nguyên, đến xã hội. Sự hiện diện của những tên quan lại Tầu thường xuyên có mặt trong những phiên họp của chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam đã đưa đến sự gậm nhấm, mất dần những địa điểm chiến lược trên vùng biên giới phía Bắc tại những tỉnh như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, những cảng Vũng Áng ở Hà Tĩnh, Cửa Việt ở Quảng Trị, sự ngăn cấm những cuộc biểu tình chống Tầu của dân chúng kể luôn cả việc làm lễ tưởng niệm những bộ đội hy sinh trong chiến tranh Việt Trung năm 1979.
Nhân công Tầu được quyền tự do sang nước ta làm việc trong những dự án, công trình mà chúng trúng thầu để xây cất cầu, đường, nhà máy thủy điện, cơ xưởng sản xuất…. Đó là không kể những quặng mỏ ỏ vùng cao nguyên, những nông trại, những trại nuôi tôm, nuôi cá dọc theo sông ngòi bờ biển. Vì được thuê mướn đất đai dài hạn nên những kế hoạch làm ăn dài hạn này cũng phải giải quyết luôn vấn đề an sinh, y tế, giáo dục… cho công nhân và gia đình vì vậy đã xuất hiện những làng của Tầu những nơi mà người Việt sinh sống trong những vùng lân cận không được phép lui tới. Thảo nào mà Hà Sĩ Phu cũng đã phải chua xót thốt lên: “Ước gì được làm người Tầu trên đất Việt”
Đứng về phương diện xã hội, bất công ngày càng nhiều, hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng sâu, người trẻ ngày nay khó tìm được công ăn việc làm dù đã tốt nghiệp đại học nên nhiều người đã phải chịu vay mượn để được đi ‘lao động’ ở nước ngoài dù biết rằng cũng sẽ bị bóc lột sức lao động. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam mà người phụ nữ phải chấp nhận đi làm tôi mọi tình dục cho người ngoại quốc như bây giờ, nhìn các cô gái Việt phải tranh nhau để được đi lấy chồng già ở Đại Hàn, Đài Loan mà đau lòng.
Người ta nói nếu nhân loại từ thời tiền sử đã phải đi qua nhiều thời đại từ đồ đá, đồ đồng…thì VN ngày nay đau đớn thay đang ở trong thời kỳ ‘đồ đểu’ vì cái gì cũng đểu, nhà nước đểu, quan chức nhà nước đểu, công an đểu, con người đối đãi với nhau đểu vì lương tâm con người đã đổi thay, đạo đức đã xuống dốc.
Hiện nay Tầu cộng cũng đang áp dụng chính sách mua chuộc này với một nước nhỏ hơn ở cạnh nước ta là Lào, một nước nhỏ diện tích 236,000km2 và dân số dưới 7 triệu người mà hiện nay trên mọi lãnh vực từ chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa đều bị chi phối bởi Bắc kinh.
Chuyện gì sẽ xảy ra cho Việt Nam một khi Lào trở thành một tỉnh, hoặc một khu tự trị của Trung Quốc? “Đường lưỡi bò”, một gọng kìm từ phía Biển Đông, kết hợp với gọng kìm từ phía Lào sẽ làm cho tiến trình đồng hóa dân Việt xảy ra nhanh hơn, khó tháo chữa hơn.
Cần đọc lại lịch sử Tầu để thấy văn hóa Hán là một thứ văn hóa xâm lăng, đồng hóa và diệt chủng hiện đang được áp dụng tại Tây Tạng, Nội Mông và Đông Turkestan. Âm mưu nham hiểm của Tầu cộng cũng đã và đang được thực hiện tạI Việt Nam một cách khôn khéo, kín đáo với sự chỉ đạo thật tinh vi từ Bắc kinh cộng thêm vào đó là sự trung thành tuyệt đối của Hà nội. Tất cả những chiêu từ sửa đổi hiến pháp, bỏ điều 4, thả những nhà đấu tranh ra ngoại quốc, những vở kịch dàn dựng bởi hai đảng cộng sản Tầu Việt chỉ có một mục đích là đánh lừa dư luận ở hải ngoại kể cả thế giới, xả bớt sức ép, sự công phẫn ở trong nước. Những ‘đặc khu’, ‘biệt khu’, những khu vực khai thác quặng mỏ, những trại nuôi tôm, nuôi cá của Tầu cộng với những tay súng nhân công trá hình sẽ làm cho sự nổi dậy nếu có của dân Việt trở nên khó hơn. Việc Tầu cộng đưa dàn khoan dầu vào sâu trong hải phận của Việt Nam trong những ngày đầu tháng năm năm nay cũng chỉ là một sự dàn dựng, đóng kịch không hơn không kém. Không có ‘phản ứng’ thì hèn quá nên phải ủi tàu vào nhau, xịt nước, chửi thề…nhưng chỉ ngày sau là ‘rút tầu ra để được ngồi xuống nói chuyện’.
Âm mưu thôn tính, bán nước đã thấy rõ, quê hương bây giờ như ‘vượn đốm’, ‘da beo’ luận điệu ‘che chở’ cho dân Tầu ở Việt Nam tương tự như bài học Crimea sẽ lại được đem ra áp dụng bởi cộng sản Tầu nếu cần. Liệu lúc ấy chúng ta có còn đủ thì giờ để xoay sở, nổi dậy không? Và sẽ được bao lâu khi bọn cầm quyền là một lũ bán nước, lòng yêu nước và tự ái dân tộc bị gậm nhấm, suy thoái sau mấy chục năm sống dưới chế độ cộng sản?
Vì vậy song song với giai đoạn sưu tầm, dịch, tổ chức hội thảo và phổ biến những tài liệu chống Bắc thuộc đến mọi tầng lớp dân Việt trong và ngoài nước đặc biệt là giới trẻ và người ngoại quốc là giai đoạn nhận diện kẻ thù, cô lập chúng để cùng phối hợp hành động trong những ngày tháng sắp tới.

Ủy Ban Chống Bắc Thuộc
BS Bùi Trọng Cường
10-5-2014

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

· Việt Nam về đâu? Bảo Giang
· Major Policy Speeches by President Ngo Dinh Diem
· Bắc Thuộc Lần Thứ 5…Mai Thanh Truyết – Ngày Quốc Hận 2013
· Việt Nam: Tỉnh hay Khu Tự Trị? HLTL – 2012
· Việt cộng còn, Nước sẽ MẤT – Lê Duy San
· MỐI LO PHƯƠNG BẮC – Vương Văn Bắc
· Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều – Lê Chí Quang
· Đại Họa Diệt Chủng – Trần Nhu

LỜI NGƯỜI XƯA:

Vietnam is no big country in terms of territory, but it really is a big one in terms of heroism, gallantry, national pride, national solidarity, collective spirit and profound love for the fatherland.
All this constitutes the SOUL OF VIETNAM.
Phạm Kim Vinh

“…Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and coming home. Because the price for that kind of peace could be a thousand years of darkness for generations Vietnam born”
Ronald Reagan.

Bình luận về bài viết này